Scholar Hub/Chủ đề/#hẹp eo động mạch chủ/
Hẹp eo động mạch chủ (còn được gọi là hẹp động mạch chủ) là tình trạng một phần của động mạch chủ bị hẹp lại do tắc nghẽn, gây khó khăn cho sự lưu thông máu đi ...
Hẹp eo động mạch chủ (còn được gọi là hẹp động mạch chủ) là tình trạng một phần của động mạch chủ bị hẹp lại do tắc nghẽn, gây khó khăn cho sự lưu thông máu đi qua. Động mạch chủ chịu trách nhiệm cung cấp máu giàu oxi và dưỡng chất đến cơ, mô và các cơ quan trong cơ thể.
Hẹp eo động mạch chủ thường xảy ra do quá trình xơ vữa, một quá trình mà các mảng xơ vữa tích tụ trong thành động mạch chủ, làm cho lumen của động mạch chủ trở nên hẹp hơn. Khi lumen bị hẹp lại, lưu lượng máu thông qua động mạch cũng giảm đi, gây ra các triệu chứng như đau ngực, khó thở, mệt mỏi, hoặc có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như đau tim hoặc nhồi máu cơ tim.
Hẹp eo động mạch chủ thường được chẩn đoán dựa trên triệu chứng của người bệnh, kết quả các xét nghiệm như EKG hoặc xét nghiệm tim, và có thể xác định chính xác hơn bằng các phương pháp hình ảnh như x-ray tim, siêu âm Doppler hay cả angiogram. Điều trị tùy thuộc vào mức độ hẹp của động mạch và tình trạng sức khỏe tổng quát của người bệnh, nhưng có thể bao gồm thuốc để giảm cholesterol, thuốc giãn mạch, thay đổi lối sống hoặc thậm chí phẫu thuật nếu cần thiết.
Hẹp eo động mạch chủ là một tình trạng xảy ra khi một phần của động mạch chủ bị hẹp lại do tắc nghẽn. Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể và chịu trách nhiệm cung cấp máu giàu oxi và dưỡng chất đến các cơ, mô và các cơ quan trong cơ thể. Hẹp eo động mạch chủ thường là kết quả của quá trình xơ vữa (atherosclerosis), trong đó các mảng xơ vữa tích tụ trong thành động mạch chủ, làm giảm đường kính của động mạch và khiến cho lưu lượng máu thông qua nó bị giảm đi.
Triệu chứng của hẹp eo động mạch chủ thường phụ thuộc vào vị trí và mức độ hẹp. Một số người có thể không có triệu chứng rõ ràng, trong khi những người khác có thể trải qua đau ngực (angina pectoris) khi hoạt động hoặc trong thời gian nghỉ ngơi, khó thở, mệt mỏi, buồn nôn hoặc nôn mửa. Nếu hẹp eo động mạch chủ không được điều trị, nó có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như đau tim (infarction) hoặc nhồi máu cơ tim (angina instable).
Để chẩn đoán hẹp eo động mạch chủ, bác sĩ sẽ thực hiện một cuộc trò chuyện với bệnh nhân để tìm hiểu về các triệu chứng và tiền sử bệnh, và thực hiện một số xét nghiệm. Một EKG (điện tâm đồ) có thể được sử dụng để kiểm tra hoạt động điện của tim. Xét nghiệm tim có thể ghi hình hoạt động của tim trong thời gian dài để xác định sự thay đổi khi người bệnh hoạt động. X-ray tim có thể được sử dụng để xem kích thước và hình dạng của tim và các mạch chủ. Siêu âm Doppler có thể được sử dụng để xem tình trạng chất lượng và lưu lượng máu thông qua động mạch chủ. Angiogram (xét nghiệm nội soi mạch máu) có thể được thực hiện để đánh giá và xem chi tiết vị trí và mức độ hẹp.
Điều trị cho hẹp eo động mạch chủ sẽ phụ thuộc vào mức độ hẹp và tình trạng sức khỏe tổng quát của người bệnh. Điều trị có thể bao gồm thuốc để giảm cholesterol và hạ huyết áp, thuốc giãn mạch để cải thiện lưu thông máu, thay đổi lối sống như tập thể dục đều đặn, ăn một chế độ ăn lành mạnh, ngừng hút thuốc lá, giảm căng thẳng và kiểm soát cân nặng. Đối với những trường hợp nghiêm trọng hơn, phẫu thuật như nạo vỡ xơ vữa (atherectomy), đặt các stent hoặc thậm chí là đường mạch đảo có thể được thực hiện để khắc phục hẹp eo động mạch chủ.
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT MỘT THÌ SỬA CHỮA HAI THẤT BỆNH LÝ HẸP EO ĐỘNG MẠCH CHỦ-THÔNG LIÊN THẤT KÈM THEO HẸP ĐƯỜNG RA THẤT TRÁI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNGMục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật một thì sửa chữa hai thất, bao gồm sửa chữa quai và eo động mạch chủ kèm theo vá lỗ thông liên thất, cho các bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh hẹp eo động mạch chủ kèm theo lỗ thông liên thất và có tổn thương hẹp đường ra thất trái cần phải can thiệp trong quá trình phẫu thuật. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 12 năm 2013 đến tháng 10 năm 2020, các bệnh nhân được chẩn đoán hẹp eo-thiểu sản quai động mạch-thông liên thất có hẹp đường ra thất trái do vách nón lệch sau, được phẫu thuật tim hở 1 thì sửa chữa hai thất và phù hợp với tiêu chuẩn được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Có tổng số 43 bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là 37 ngày (IQR, 22-62), cân nặng trung bình của các bệnh nhân khi phẫu thuật là 3.7kg (IQR, 3.2-4.1). Có 29 bệnh nhân (67.4%) nam và 14 bệnh nhân nữ. Thời gian cặp động mạch chủ trung bình của nhóm nghiên cứu là 98.7 ± 26.3 phút, thời gian chạy máy trung bình là 135.6 ± 41.5 phút, thời gian tưới máu não chọn lọc trung bình là 32 ± 11.2 phút. Có 18 bệnh nhân (41.9%) được cắt vách nón, và 25 bệnh nhân (58.1%) được khâu kéo vách nón sang phải nhằm mở rộng đường ra thất trái. Không có bệnh nhân nào có tổn thương van động mạch chủ hoặc tổn thương đường dẫn truyền cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn sau phẫu thuật. 2 bệnh nhân cần hỗ trợ ECMO sau phẫu thuật. Có 2 bệnh nhân (4.7%) trong nhóm nghiên cứu tử vong sớm tại bệnh viện sau phẫu thuật và 1 bệnh nhân (2.3%) tử vong muộn, tỷ lệ tử vong chung trong nhóm nghiên cứu là 7%. Có 2 bệnh nhân (5%) cần mổ lại do hẹp đường ra thất trái sau phẫu thuật, 1 bệnh nhân (2.5%) cần nong van ĐMC sau phẫu thuật trong thời gian theo dõi trung bình sau phẫu thuật là 1.5 năm (IQR, 0.6-4). Tỷ lệ sống sót và tỷ lệ sống sót không cần mổ lại sau phẫu thuật ở thời điểm 7 năm lần lượt là 88.5% và 88.5%. Kết luận: Phẫu thuật 1 thì sửa chữa hai thất điều trị bệnh hẹp eo động mạch chủ-thông liên thất và hẹp đường ra thất trái do vách nón lệch sau là an toàn và hiệu quả. Mổ lại do hẹp đường ra thất trái sau chiếm tỷ lệ thấp, tuy nhiên đây là nhóm bệnh nhân cần được tiếp tục theo dõi lâu dài sau phẫu thuật.
#hẹp eo động mạch chủ #thông liên thất #hẹp đường ra thất trái #phẫu thuật 1 thì sửa hai thất
PHẪU THUẬT NORWOOD-YASUI NỐI TẮT ĐƯỜNG RA THẤT TRÁI ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ HẸP NẶNG ĐƯỜNG RA THẤT TRÁI KÈM THEO LỖ THÔNG LIÊN THẤT VÀ GIÁN ĐOẠN QUAI ĐỘNG MẠCH CHỦMục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật Norwood-Yasui điều trị bệnh lý hẹp rất nặng đường ra thất trái kèm theo lỗ thông liên thất và gián đoạn quai động mạch chủ tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 2 năm 2022, có tổng số 8 bệnh nhân được phẫu thuật Norwood hoặc Yasui điều trị bệnh lý hẹp rất nặng đường ra thất trái-thông liên thất kèm theo gián đoạn quai động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Trong nhóm nghiên cứu, tuổi trung bình và cân nặng trung bình của các bệnh nhân khi tiến hành phẫu thuật thì đầu (phẫu thuật Norwood, Yasui hoặc sửa quai-vá thông liên thất) lần lượt là 30.5 ngày (IQR, 21.5-37.5 ngày) và 3.15 kg (IQR, 2.7-3.8 kg). Thời gian chạy máy tim phổi nhân tạo thì đầu, thời gian cặp động mạch chủ và thời gian tưới máu não chọn lọc thì đầu lần lượt là 146.6 ± 25.1 phút, 99.4 ± 21.2 phút và 47.4 ± 8.9 phút. Thời gian thở máy trung bình và thời gian nằm viện sau phẫu thuật thì đầu lần lượt là 171 giờ (IQR, 141.5 – 238giờ) và 29.5 ngày (IQR, 19.5 – 34.5 ngày). Có 2 bệnh nhân tử vong sớm sau phẫu thuật Norwood. Trong số 6 bệnh nhân sống sót, ngoại trừ bệnh nhân được phẫu thuật Yasui thì đầu, có 4 bệnh nhân đã được sửa chữa toàn bộ hai thất (2 bệnh nhân phẫu thuật Ross-Konno, 1 bệnh nhân phẫu thuật Yasui và 1 bệnh nhân phẫu thuật vá lỗ thông kèm theo cắt vách nón mở rộng đường ra thất trái), 1 bệnh nhân được phẫu thuật Gleen và đang đợi phẫu thuật sửa hai thất. Kết luận: Phẫu thuật Norwood-Yasui điều trị bệnh lý hẹp nặng đường ra thất trái-thông liên thất-gián đoạn quai động mạch chủ là một lựa chọn hợp lý và khả thi đối với bệnh lý tim bẩm sinh hiếm gặp và tổn thương phức tạp. Theo dõi lâu dài là đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo kết quả sống sót của các bệnh nhân tim bẩm sinh phức tạp này.
#Gián đoạn quai động mạch chủ #hẹp rất nặng đường ra thất trái #phẫu thuật Norwood #phẫu thuật Yasui.
Etofibrate ức chế sự hình thành neointima của động mạch cảnh chung bị bơm bóng ở chuột Dịch bởi AI Naunyn-Schmiedebergs Archiv für Pharmakologie und experimentelle Pathologie - Tập 352 - Trang 424-428 - 1995
Việc ức chế sự hình thành neointima bởi các loại thuốc là một mục tiêu chính để ngăn ngừa sự tái hẹp (restenosis) sau phẫu thuật thông mạch (angioplasty). Trong nghiên cứu này, tác động của etofibrate lên lipid trong máu và thành mạch đã được điều tra bằng mô hình chuột bị tổn thương do bơm bóng. Hai tuần sau khi bơm bóng vào động mạch cảnh chung, sự hình thành neointima được định lượng thông qua việc đo lường hình thái học diện tích neointima và mức độ tế bào trong các lát cắt của mạch máu, cũng như bằng cách đánh giá hàm lượng DNA qua phương pháp phát quang. Etofibrate (160 mg/kg/ngày) không có tác động lên nồng độ triglyxerit trong huyết tương, nhưng đã giảm cholesterol huyết thanh khoảng 25%. Sự gia tăng diện tích neointima và hàm lượng DNA do tổn thương gây ra đã bị ức chế một cách đáng kể lần lượt là 47% (P <0.005) và 34% (P <0.05) ở các động vật được điều trị thuốc so với nhóm đối chứng không điều trị. Tỷ lệ giữa neointima và lớp trung bình (media) đã giảm một cách đáng kể (P < 0.001) từ 152.9 ± 11.6% (nhóm đối chứng) xuống còn 82.84 ± 12.59% ở nhóm được điều trị bằng etofibrate. Mức độ tế bào (hồ sơ số lượng và mật độ thể tích của nhân tế bào) trong neointima tương tự ở cả hai nhóm. Kết luận, sự hình thành neointima do tổn thương gây ra giảm ở các động vật được điều trị bằng etofibrate, điều này có thể là do sự ức chế sự phát triển của tế bào cơ trơn.
#etofibrate #neointima #tái hẹp #bơm bóng #động mạch cảnh #chuột
Thuyên tắc động mạch thận qua da ở các đoạn ghép thận không hoạt động với hội chứng không dung nạp lâm sàng Dịch bởi AI Transplant International - Tập 15 - Trang 149-155 - 2002
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả và tính an toàn của thuyên tắc động mạch thận qua da ở các đoạn ghép thận không hoạt động ở bệnh nhân mắc hội chứng không dung nạp ghép (GIS). Thuyên tắc động mạch qua catheter được thực hiện trên 30 bệnh nhân ghép thận mắc GIS. Thời gian chức năng của đoạn ghép đã là 60±45 tháng. Các bệnh lây nhiễm đã được loại trừ ở tất cả các bệnh nhân. Thuyên tắc bao gồm việc tiêm microsphere polyvinyl alcohol và sau đó là chèn một cuộn thép không gỉ vào các nhánh động mạch thận. Các triệu chứng của GIS bao gồm: sốt - đau ghép (44%, n=13), sốt - tiểu máu - đau (20%, n=6), sốt - tiểu máu (13%, n=4) và chỉ sốt (23%, n=7). Thời gian trễ giữa thất bại của ghép và thuyên tắc là 184±227 (17–1181) ngày. Thuyên tắc đã thành công về mặt lâm sàng với sự biến mất kéo dài của GIS ở 24 bệnh nhân (80%). Sáu bệnh nhân cho thấy sự cải thiện lâm sàng ban đầu, nhưng GIS đã tái phát sau 40±18 ngày, và cần phải thực hiện cắt thận ghép. Không có biến chứng lớn nào liên quan đến thuyên tắc và không có trường hợp tử vong. Cung cấp máu bàng quang quanh thận được xác định là yếu tố nguy cơ cho sự tái phát của GIS. Thuyên tắc mạch thận là một kỹ thuật đơn giản, an toàn và hiệu quả cho việc điều trị hội chứng không dung nạp ghép thận và có thể là một lựa chọn khả thi cho điều trị đường đầu.
#Thuyên tắc động mạch thận #hội chứng không dung nạp ghép #ghép thận không hoạt động #kỹ thuật y khoa.
Kết quả phẫu thuật một thì bệnh thông liên thất kèm hẹp eo động mạch chủ ở trẻ sơ sinhMục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật một thì bệnh thông liên thất có hẹp eo động mạch chủ ở trẻ sơ sinh
Tóm tắt: Bệnh thông liên thất kèm theo hẹp eo động mạch chủ là một tổn thương nặng cần phải phẫu thuật trong trong giai đoạn sơ sinh khi trẻ có tình trạng suy tim không kiểm soát được bằng thuốc. Có 2 phương pháp phẫu thuật phổ biến là phẫu thuật 2 thì với sửa eo động mạch chủ sau đó vá thông liên thất; phẫu thuật 1 thì (sửa eo động mạch chủ kết hợp vá thông liên thất). Để đánh giá kết quả phẫu thuật 1 thì cho bệnh nhân sơ sinh có các tổn thương này chúng tôi tiến hành nghiên cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu mô tả hồi cứu. Từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 12 năm 2023 có 16 bệnh nhân sơ sinh chẩn đoán thông liên thất có hẹp eo động mạch chủ được phẫu thuật sửa toàn bộ một thì. Tuổi trung bình 21 ngày (14 ngày- 29 ngày); cân nặng trung bình 3,3 kg (2,9 – 3,6 kg). Tất cả bệnh nhân có suy tim nặng, thông liên thất rộng và hẹp eo động mạch chủ nặng với chênh áp trung bình 54 mmHg.
Kết quả: Thời gian chạy máy tim phổi nhân tạo 126 phút (102 – 143 phút), thời gian cặp động mạch chủ 87 phút (75 – 94 phút), thời gian tưới máu não chọn lọc trung bình 18 phút (15-24 phút). 5 bệnh nhân để hở xương ức. Có 1 bệnh nhân tử vong sau mổ, 1 bệnh nhân tai biến mạch não sau mổ (xuất huyết não). Siêu âm sau mổ thông liên thất kín, chênh áp trung bình qua eo động mạch chủ 7mm Hg. Theo dõi trong vòng 57 tháng, không có bệnh nhân tử vong. Siêu âm chênh áp qua eo động mạch chủ trung bình 12 mmHg. Có một 1 bệnh nhân hẹp eo động mạch chủ mức độ vừa với chênh áp trung bình 25 mmHg
Kết luận: Kết quả phẫu thuật 1 thì sửa eo động mạch chủ, vá thông liên thất tốt với nguy cơ bị hẹp laị eo động mạch chủ thấp.
#Thông liên thất #Hẹp eo động mạch chủ
14. Đặc điểm tăng huyết áp sau phẫu thuật sửa hẹp eo động mạch chủ và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Nhi Trung ươngTăng huyết áp trong giai đoạn hồi sức sau phẫu thuật sửa hẹp eo động mạch chủ là hiện tượng tăng huyết áp thường gặp xảy ra trong vòng 1 tuần sau phẫu thuật. Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 115 bệnh nhân chẩn đoán hẹp eo động mạch chủ đã được phẫu thuật sửa hẹp eo động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2023. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp sau phẫu thuật là 77%. Thời điểm bắt đầu tăng huyết áp thường xảy ra vào 6 giờ đầu sau phẫu thuật. Đỉnh tăng huyết áp tâm thu trong khoảng 6 đầu giờ sau phẫu thuật và đỉnh tăng huyết áp tâm trương trong khoảng 72 – 96 giờ sau phẫu thuật. Mức độ tăng huyết áp độ 2 chiếm 79,8%, chủ yếu trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật. Tất cả các bệnh nhân đều tăng huyết áp tâm thu, có 7 bệnh nhân tăng huyết áp tâm thu đơn độc và 92,1% bệnh nhân có tăng huyết áp cả tâm thu và tâm trương. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy tuổi phẫu thuật > 1 tháng, tăng huyết áp trước phẫu thuật, duy trì thuốc vận mạch tăng cường co bóp cơ tim sau phẫu thuật là các yếu tố nguy cơ độc lập của tăng huyết áp sau phẫu thuật.
#Tăng huyết áp #hẹp eo động mạch chủ #phẫu thuật tim
Theo dõi huyết áp sau 3 năm điều trị cho bệnh nhân tăng huyết áp có hẹp động mạch cảnh có triệu chứng Dịch bởi AI Acta Neurochirurgica - Tập 158 - Trang 2385-2392 - 2016
Huyết áp (HA) được báo cáo là giảm đáng kể sau khi thực hiện phẫu thuật lấy huyết khối động mạch cảnh (CEA) hoặc đặt stent động mạch cảnh (CAS) trong thử nghiệm theo dõi 1 năm. Chúng tôi đã đánh giá sự thay đổi của huyết áp trong 3 năm sau khi điều trị cho bệnh nhân tăng huyết áp có hẹp động mạch cảnh có triệu chứng bằng cách thực hiện hoặc CEA hoặc CAS và xác định các yếu tố thuận lợi dẫn đến huyết áp bình thường tại thời điểm theo dõi 3 năm. Tổng cộng có 123 bệnh nhân tăng huyết áp với ít nhất 3 năm theo dõi lâm sàng và hình ảnh học sau khi điều trị được đưa vào nghiên cứu này và được phân thành nhóm CEA (n=65) hoặc nhóm CAS (n=58). Sự thay đổi huyết áp trong 3 năm, số lượng bệnh nhân có huyết áp bình thường (≤120/80 mmHg) và tỷ lệ giảm huyết áp được đánh giá và so sánh giữa các nhóm. So với huyết áp trước điều trị, nhóm CEA có huyết áp giảm đáng kể tại các thời điểm theo dõi 1 và 2 năm (p<0.05), nhưng không có sự giảm tại thời điểm theo dõi 3 năm. Nhóm CAS có huyết áp giảm đáng kể tại các thời điểm 1 năm, 2 năm và 3 năm (p<0.05). Vị trí hẹp (tổn thương ở thân hơn là tổn thương ở ngọn; OR=1.526, 95% CI, 1.341 đến 6.224; p=0.034) là một yếu tố độc lập thuận lợi cho huyết áp bình thường tại thời điểm theo dõi 3 năm. Đối với các bệnh nhân tăng huyết áp có hẹp động mạch cảnh có triệu chứng, huyết áp đã giảm tại thời điểm 3 năm sau cả CEA và CAS so với huyết áp trước điều trị. CAS có thể giúp giảm huyết áp tốt hơn trong thời gian dài so với CEA, và bệnh nhân tăng huyết áp có hẹp ở thân có thể có huyết áp bình thường tại 3 năm sau CEA hoặc CAS.
#huyết áp #tăng huyết áp #hẹp động mạch cảnh #phẫu thuật lấy huyết khối động mạch cảnh #đặt stent động mạch cảnh #theo dõi lâm sàng
Phình động mạch chủ bụng ở người nhận ghép gan Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 386 - Trang 426-429 - 2001
Nền tảng và mục tiêu: Phân tích tỷ lệ, đặc điểm lâm sàng, tỷ lệ giãn nở của phình động mạch chủ bụng và cách tiếp cận lâm sàng đối với phình động mạch chủ bụng ở các bệnh nhân đã trải qua ghép gan giả định. Đến thời điểm hiện tại, đây là báo cáo đầu tiên về vấn đề này ở những người nhận ghép gan. Bệnh nhân/Phương pháp: Trong số 172 bệnh nhân trải qua 185 ca ghép gan tại cơ sở của chúng tôi trong 10 năm qua, chúng tôi đã xác định được ba bệnh nhân (1,7%) có phình động mạch chủ bụng dưới thận. Tất cả họ đều đã trải qua kiểm tra siêu âm định kỳ trước khi ghép gan để sàng lọc phình động mạch. Kết quả: Cả ba bệnh nhân đều không có triệu chứng khi phát hiện ra sự phình nhẹ ở vùng bụng dưới thận trước (n=2) và sau khi ghép gan (n=1), và đều được theo dõi chặt chẽ bằng siêu âm trong thời gian theo dõi (3,1-4,3 năm). Tỷ lệ giãn nở trung bình của phình là 0,73 cm/năm. Tất cả các bệnh nhân đều trải qua phẫu thuật sửa chữa phình sau khi phình của họ giãn nở đáng kể trong quá trình quan sát, với đường kính trung bình là 5,1 cm tại thời điểm sửa chữa. Cả ba bệnh nhân đều còn sống và khỏe mạnh (thời gian theo dõi trung vị: 19 tháng). Kết luận: Dữ liệu của chúng tôi cho thấy rằng cần phải giám sát siêu âm cẩn thận cho bất kỳ người nhận ghép gan nào, do sự có vẻ như có khả năng giãn nở phình nhanh hơn và có thể dẫn đến diễn tiến nặng nề hơn so với nhóm không được ghép. Việc sửa chữa sớm phình động mạch chủ bụng dưới thận được khuyến nghị ở những người nhận ghép gan, với điều kiện rằng có thể đạt được kết quả tốt trong phẫu thuật và hậu phẫu.
#phình động mạch chủ bụng #ghép gan #giãn nở phình #lâm sàng #theo dõi siêu âm
Hẹp động mạch thận kèm theo phình động mạch chủ bụng: Các lựa chọn điều trị Dịch bởi AI Annals of Vascular Surgery - Tập 10 - Trang 361-364 - 1996
Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích kết quả của hai chiến lược điều trị khác nhau ở những bệnh nhân được điều trị hẹp động mạch thận (RA) và phình động mạch chủ bụng (AAA) đồng thời. Tổng cộng có 50 bệnh nhân đã được gặp cần điều trị cho hẹp động mạch thận và AAA từ năm 1980 đến 1994. Phẫu thuật tái cấu trúc động mạch chủ và động mạch thận cùng lúc đã được thực hiện trên 32 bệnh nhân, trong khi 18 bệnh nhân được điều trị bằng nong động mạch thận qua da tiền phẫu (PTRA). Hai nhóm bệnh nhân này được ghép nối tốt với nhau về độ tuổi, kích thước AAA, tỷ lệ mắc tăng huyết áp, mức độ creatinine tiền phẫu và độ thanh thải creatinine (tất cả các giá trị p > 0,07). Phẫu thuật vượt bắc động mạch chủ-thận (18 RA), tái cấy ghép (18 RA) hoặc phẫu thuật lấy nội mạc (2 RA) đã được thực hiện để chỉnh sửa hẹp động mạch thận trung bình 88%, trong khi 23 RA (hẹp trung bình 91%) được điều trị bằng PTRA tiền phẫu. PTRA đã thất bại ở bốn bệnh nhân có hẹp động mạch thận, và họ đã được điều trị thành công bằng phẫu thuật (3 ca vượt bắc và 1 ca tái cấy ghép). Phân tích thống kê không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa bốn bệnh nhân PTRA thất bại này, 14 bệnh nhân PTRA thành công, và 32 bệnh nhân tái cấu trúc động mạch thận về thời gian phẫu thuật (p = 0,15), mất máu trong phẫu thuật (p = 0,20), ngày nằm trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (p = 0,71), hay tổng số ngày nằm viện (p = 0,94). Trong số 40 bệnh nhân có thể theo dõi, tăng huyết áp đã được chữa khỏi ở 7 người, cải thiện ở 10 người, không thay đổi ở 15 người, và xấu đi ở 8 người với không có sự khác biệt nào được chứng minh giữa các nhóm (p = 0,73). Những dữ liệu này cho thấy rằng PTRA tiền phẫu không có lợi thế cụ thể nào so với phẫu thuật tái cấu trúc động mạch thận ở những bệnh nhân có hẹp động mạch thận kèm theo AAA. PTRA thất bại không làm cản trở hay làm phức tạp quá trình tái tưới máu động mạch thận phẫu thuật sau đó.
#hẹp động mạch thận #phình động mạch chủ bụng #PTRA #phẫu thuật #điều trị đồng thời
Tắc mạch huyết khối tiến triển của động mạch chậu chung trái sau phẫu thuật ghép đốt sống trước Dịch bởi AI European Spine Journal - Tập 7 Số 3 - Trang 239-241 - 1998
Chúng tôi báo cáo một trường hợp tắc nghẽn huyết khối tiến triển của động mạch chậu chung trái ở một phụ nữ 41 tuổi sau phẫu thuật ghép đốt sống trước, mà ban đầu chỉ biểu hiện bằng cảm giác tê. Chẩn đoán bị chậm trễ cho đến khi tắc nghẽn động mạch hoàn toàn xảy ra 36 giờ sau phẫu thuật. Một khiếm khuyết cảm giác có thể là dấu hiệu sớm duy nhất của tắc nghẽn động mạch huyết khối tiến triển. Trong phẫu thuật cột sống trước, việc theo dõi mạch máu định kỳ sau phẫu thuật ở các chi dưới được khuyến nghị và bắt buộc để chẩn đoán và điều trị sớm biến chứng hiếm gặp này.
#tắc mạch huyết khối #động mạch chậu chung #phẫu thuật ghép đốt sống #cảm giác tê #theo dõi mạch máu